Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không chỉ về mặt tài chính mà còn ảnh hưởng đến niềm tin và an ninh của người dân. Vậy theo Điều 174 BLHS thì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định như thế nào?

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì?

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội xâm phạm sở hữu và được quy định là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối. Đây là một tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015.

Điều này có thể bao gồm các hành vi như lừa đảo, gian lận, lừa bịp hoặc sử dụng thủ đoạn gian trá để lấy trộm tài sản của người khác. Tội này thường được coi là một hành vi phạm tội nghiêm trọng và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật pháp.

Xem thêm:

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS năm 2015 
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS năm 2015

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS năm 2015

Dấu hiệu pháp lý

*Dấu hiệu hành vi phạm tội

Hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi khác nhau, đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Hai hành vi này có quan hệ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và kết quả của hành vi lừa dối.

* Về mặt khách quan

Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật.

* Về mặt chủ quan

Người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật. Hành vi lừa dối như vậy có thể được thực hiện qua lời nói, qua việc xuất trình những giấy tờ sai sự thật hoặc qua những việc làm cụ thể (đưa sai, đưa thiếu, đếm thiếu,…).

*Khách thể của tội phạm

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã xâm phạm tới quan hệ sở hữu. Cụ thể, hành vi lừa dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện là nhằm việc chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu.

* Chủ thể thực hiện tội phạm

Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể bình thường. Những người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định mà BLHS quy định đối với mọi loại tội phạm.

* Về hình thức thể hiện

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS có hai hình thức thể hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã giao nhầm tài sản.

Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản định chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất khả năng làm chủ tài sản đó trên thực tế. Ở thời điểm này, hành vi phạm tội đã thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm và do vậy, tội phạm được xác định là tội phạm hoàn thành.

Thứ hai, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ ra phải giao cho người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã nhận nhầm tài sản (nhận thiếu, nhận sai loại tài sản được nhận) hoặc không nhận.

Khi người bị lừa dối nhận nhầm hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản bị chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất tài sản đó. Ở thời điểm này, hành vi phạm tội đã thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm và do vậy, tội phạm được xác định là tội phạm hoàn thành.

Hình phạt

Điều 174 BLHS năm 2015 quy định 4 khung hình phạt và 1 khung hình phạt bổ sung.

Khung hình phạt cơ bản có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 đến 07 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung tăng nặng sau:

– Phạm tội có tổ chức

– Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp

– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng

– Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức

– Dùng thủ đoạn xảo quyệt

Khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt từ 07 năm đến 15 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng như sau:

– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng

– Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh

Khung hình phạt tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung tăng nặng sau:

– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500 triệu đồng trở lên

– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp

Khung hình phạt bổ sung quy định (có thể được áp dụng) là: Phạt tiền từ 10 triệu đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Xem thêm: 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

To Top