Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 do Quốc hội ban hành quy định trình tự, thủ tục, nội dung tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và những quan hệ pháp luật khác nảy sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã bộc lộ một số hạn chế cần được xem xét và cải cách nhằm tối ưu hóa hệ thống tư pháp hình sự của Việt Nam.
Thực trạng áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Ưu điểm
Một trong những ưu điểm nổi bật của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 là việc tăng cường bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Cụ thể, luật đã quy định rõ ràng hơn về các biện pháp bảo đảm quyền của người bị buộc tội, đặc biệt là nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền im lặng, và quyền được có luật sư bào chữa trong suốt quá trình tố tụng.
Nguyên tắc suy đoán vô tội, được quy định tại Điều 13, đã tạo ra nền tảng pháp lý vững chắc bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội. Điều này giúp ngăn chặn tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng lạm dụng quyền lực, buộc tội mà chưa có đủ căn cứ pháp lý, và yêu cầu tòa án phải căn cứ vào các bằng chứng thuyết phục để đưa ra phán quyết.
Ngoài ra, quyền có luật sư bào chữa đã được nhấn mạnh hơn trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Theo quy định, bị can, bị cáo có quyền mời luật sư tham gia ngay từ giai đoạn điều tra, điều này giúp họ hiểu rõ hơn về quyền lợi của mình và tránh các tình huống ép buộc, ép cung hay mớm cung.
Những bất cập trong thực tiễn áp dụng
Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có nhiều cải tiến, nhưng quá trình thực thi tại một số địa phương còn gặp không ít khó khăn. Các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội, mặc dù đã được quy định, nhưng chưa được thực hiện một cách nhất quán.
Một ví dụ điển hình là quyền im lặng của người bị bắt giữ, bị can và bị cáo. Trên thực tế, việc thực thi quyền này tại nhiều nơi vẫn còn bị giới hạn bởi các quy định nội bộ, hoặc do sự thiếu hiểu biết của các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này dẫn đến nhiều vụ án mà người bị buộc tội chưa được tiếp cận đầy đủ với các quyền lợi của mình, ảnh hưởng đến sự công bằng trong xét xử.
Một vấn đề khác là tình trạng lạm dụng biện pháp tạm giam và tạm giữ. Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã có quy định rõ ràng về điều kiện, thẩm quyền và thời gian áp dụng biện pháp này, nhưng trong thực tiễn, việc tạm giam quá thời hạn hoặc không có căn cứ pháp lý chính đáng vẫn xảy ra, gây ra sự bất bình trong xã hội.
Đề xuất cải cách nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Một là, bổ sung quy định về việc CQĐT được tiến hành các hoạt động như: Thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận dạng… trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Hai là, Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cần quy định căn cứ xác định bị can, bị cáo thuộc các trường hợp: “Không có nơi cư trú rõ ràng”, “có dấu hiệu bỏ trốn”, “có dấu hiệu tiếp tục phạm tội” để áp dụng biện pháp tạm giam.
Đối với biện pháp dẫn giải, để đảm bảo tính thống nhất, cần sửa đổi điểm a khoản 2 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau: “Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”.
Ba là, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 236 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 theo hướng: Quy định rõ trách nhiệm, thời hạn các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải xem xét, thực hiện, trả lời yêu cầu của Viện kiểm sát về cung cấp tài liệu có liên quan đến vụ án trong giai đoạn truy tố; quy định rõ chế tài nếu hết thời hạn yêu cầu mà cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện.
Bốn là, tại điểm a khoản 1 Điều 237 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cần quy định rõ trường hợp nào Viện kiểm sát yêu cầu, trường hợp nào Viện kiểm sát kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; quy định biện pháp, chế tài cụ thể nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát.
Đồng thời, trên cơ sở quy định của pháp luật, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát các cấp cần tích cực xây dựng các quy chế, quy định hoặc cơ chế khác để phối hợp chặt chẽ ngay từ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm và xuyên suốt những giai đoạn tố tụng tiếp theo. Việc phối hợp phải thường xuyên, liên tục, có tính ràng buộc trách nhiệm thực hiện từ lãnh đạo cho đến Kiểm sát viên, Điều tra viên. Các cơ chế này phải phù hợp với quy định của Hiến pháp, quán triệt các nguyên tắc cơ bản về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và CQĐT trong tố tụng hình sự nói chung và trong hoạt động điều tra các vụ án nói riêng.
Trong đó, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng, của những người tiến hành tố tụng, tạo điều kiện cho từng chủ thể góp phần nâng cao hiệu quả điều tra các vụ án hình sự, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Bên cạnh đó, cần có quy định phối hợp liên ngành và ngành dọc cấp trên để cùng đánh giá chứng cứ, xác định tội danh trong những trường hợp phức tạp, có nhiều quan điểm khác nhau, duy trì đều đặn chế độ họp liên ngành để phối hợp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
Xem thêm: