Trong quá trình tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được diễn ra thuận lợi, tránh việc bị can thiệp, thâu tóm hoặc gây trở ngại tố tụng, cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, các biện pháp ngăn chặn bao gồm khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tập trung vào ba biện pháp ngăn chặn quan trọng nhất: tạm giam, tạm giữ và cấm đi khỏi nơi cư trú.

Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự: Tạm giam, tạm giữ và cấm đi khỏi nơi cư trú
Tạm giữ trong tố tụng hình sự
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt theo lệnh bắt hoặc người tự thú, nhằm đảm bảo việc xác minh hành vi phạm tội, nguyên nhân và hoàn cảnh phạm tội.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
Tạm giam trong tố tụng hình sự
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong một số trường hợp nhất định nhằm đảm bảo quá trình tố tụng.
Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Cấm đi khỏi nơi cư trú trong tố tụng hình sự
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Ai có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố?
Theo khoản 1 Điều 236 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố như sau:
“Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
1. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
2. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết.
3. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra.
4. Quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can trong trường hợp phát hiện còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố, điều tra.
5. Quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung.
6. Quyết định tách, nhập vụ án; chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
7. Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
…”
Theo quy định trên, người có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố là Viện Kiểm sát.
Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố là bao lâu?
Theo khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thời hạn quyết định việc truy tố như sau:
“Thời hạn quyết định việc truy tố
1. Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định:
a) Truy tố bị can trước Tòa án;
b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
…”
Như vậy, thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố không được quá thời hạn quyết định việc truy tố được quy định tại khoản 1 Điều 240 nêu trên.
Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo việc xử lý hình sự được diễn ra đúng pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp này phải tuân thủ chặt chẽ quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Tùy vào từng trường hợp cụ thể, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét áp dụng biện pháp phù hợp nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra hiệu quả, công bằng và khách quan.
Xem thêm: