Bản án số 110/2025/DS-PT về tranh chấp di sản thừa kế
Công chứng viên ghi thêm vào Hợp đồng, cụ thể ghi thêm chữ “Hộ” vào trước Bên tặng cho và cụm từ “VÀ ĐẤT Ở” vào phía sau tiêu đề của Hợp đồng. Việc “đính chính” này làm thay đổi chủ thể và nội dung tặng cho, nhưng không có ý kiến của bên tặng cho nên hiệu lực của Hợp đồng tặng cho nhà ở ngày 27/10/2004 (bút lục từ 60 đến 65) được xác định theo nội dung của hợp đồng (gốc) và các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm xác lập hợp đồng, đó là Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 và Luật Đất đai (LĐĐ) năm 2003.
Về hiệu lực Hợp đồng tặng cho nhưng chưa đăng ký: người nhận tặng cho đưa ra ý kiến là do bận làm ăn để chăm sóc cha mẹ và cũng muốn để Cụ K1 và cụ N1 đứng tên nhà đất khi còn sống
Theo nội dung Hợp đồng tặng cho nhà ở ngày 27/10/2004, thì “đối tượng của hợp đồng này là toàn bộ ngôi nhà số: H đường H, Phường C TXBL [thị xã B] – tỉnh Bạc Liêu, có thực trạng như sau: a. Nhà ở …; b. Đất ở …”.
Như vậy, đối tượng của hợp đồng nêu trên là nhà ở và đất ở. Theo quy định tại Điều 463 của BLDS năm 1995 về tặng cho bất động sản, thì “(1) tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc có chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu; (2) Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký…”.
Và theo quy định tại Điều 129 của LĐĐ năm 2003, thì hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất phải được nộp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất để được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên được tặng cho không thực hiện đăng ký tài sản tặng cho nêu trên nên hợp đồng chưa phát sinh hiệu lực.
Theo Bị đơn khai, việc không thực hiện đăng ký nhà đất nêu trên là do bận làm ăn để chăm sóc cha mẹ và cũng muốn để Cụ K1 và cụ N1 đứng tên nhà đất khi còn sống. Đây là ý chí chủ quan của Bị đơn chứ không phải do trở ngại khách quan như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm để áp dụng Án lệ số 52/2021/AL ngày 25/11/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, công nhận hiệu lực của hợp đồng tặng cho nêu trên là không đúng trong trường hợp này.
Khi cụ K1, cụ N1 chết (năm 2012) thì phát sinh quyền thừa kế đối với di sản do hai cụ để lại, do đó, năm 2015, Bị đơn không còn quyền thực hiện đăng ký tài sản tặng cho theo quy định của pháp luật về thừa kế nên Nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế nêu trên là có cơ sở để chấp nhận.
Xem đầy đủ bản án TẠI ĐÂY.