Án treo là gì? Khi nào thì được hưởng án treo?

Án treo là một chế định pháp lý hình sự liên quan đến chấp hành hình phạt. Án treo được hiểu việc tạm thời miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cho người vi phạm luật ở mức độ ít nghiêm trọng.

Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành tại trại giam và cho phép người vi phạm cải tạo bằng cách giám sát, quản lý và giáo dục tại địa phương tạm trú của họ mà không cần phải cách ly khỏi xã hội.

Án treo là gì?
Án treo là gì?

Án treo là gì?

Án treo là chế định pháp lí hình sự ra đời rất sớm, xuất hiện cùng với sự ra đời và phát triển của luật hình sự Việt Nam.

Theo các văn bản pháp luật hình sự ở nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, án treo đã được ghi nhận tại Điều 10 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức toà án quân sự.

An treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.

Lý do tòa án áp dụng án này có thể là do người bị kết án đã có những đóng góp tích cực cho xã hội trước khi phạm tội, hoặc do tình tiết giảm nhẹ về mức độ phạm tội. Án treo cũng có thể được áp dụng trong trường hợp người bị kết án có trách nhiệm nuôi dưỡng gia đình hoặc có những người phụ thuộc vào mình.

Tuy nhiên, việc áp dụng này không có nghĩa là tòa án tha thứ cho tội phạm. Nếu trong thời gian hoãn thi hành án, người bị kết án vi phạm các điều kiện của tòa án hoặc tiếp tục phạm tội, tòa án có quyền thu hồi án treo và chuyển sang thi hành án phạt đối với người này.

Xem thêm: Thủ Tục Đăng Ký Bào Chữa Vụ Án Hình Sự Theo Quy Định Của Pháp Luật Hiện Hành

Thi hành án treo

Khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) quy định rằng trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật THAHS 2 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Theo khoản 6, 7, 8 Điều 11 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao (Nghị quyết số 02), hướng dẫn thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn xét, quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho như sau:

  • 6- Trong thời hạn 3 ngày làm việc, Tòa án sẽ gửi quyết định buộc người bị án treo phải chấp hành hình phạt tù cho người đó, cơ quan đề nghị buộc chấp hành, Viện Kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp, Tòa án đã ra quyết định thi hành án phạt tù cho người đó, và Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở.
  • 7- Quyết định giải quyết đề nghị buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án này có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Việc phúc thẩm quyết định giải quyết đề nghị buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo được thực hiện theo thủ tục phúc thẩm quyết định theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quyết định giải quyết kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết đề nghị buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thực hiện theo mẫu số 03 ban hành kèm theo Nghị quyết này.

  • 8- Quyết định giải quyết đề nghị buộc người được hưởng án này phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm mà không có kháng cáo hoặc kháng nghị.

Xem thêm: Trình Tự, Thủ Tục Xét Xử Theo Thủ Tục Tái Thẩm Vụ Án Hình Sự

Điều kiện hưởng án treo theo pháp luật Việt Nam

Người bị kết án tù có thể được xem xét cho hưởng án treo nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:

1. Bị kết án tù không quá 3 năm.

2. Có nhân thân lành mạnh, không có tiền án tiền sự và đã tuân thủ pháp luật, chính sách và nghĩa vụ công dân đầy đủ tại nơi cư trú và làm việc.

  • Đối với các trường hợp không có tiền án, đã xóa tiền án, hoặc bị xử phạt hành chính hay kỷ luật nhưng đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt, chưa bị kỷ luật theo quy định của pháp luật và tính chất, mức độ tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ điều kiện khác, cũng có thể được xem xét cho hưởng án treo;
  • Đối với các trường hợp kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật”, “đã bị xử phạt hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ điều kiện khác, cũng có thể được xem xét cho hưởng án treo;
  • Đối với các trường hợp vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ điều kiện khác, cũng có thể được xem xét cho hưởng án treo.

3. Có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017).

  • Nếu có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ hai tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

4. Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.

5. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

6. Khi xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo Tòa án phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với các trường hợp được hướng dẫn tại khoản 2, khoản 4 và khoản 5 Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP.

Án treo giúp mang lại cơ hội cho bị cáo để sửa chữa hành vi phạm tội mà còn giúp giảm thiểu tình trạng quá tải cho hệ thống tư pháp.

Tuy nhiên, việc áp dụng án treo cần được thực hiện theo quy định của pháp luật và dựa trên những căn cứ chính đáng. Đồng thời, cần có sự giám sát chặt chẽ để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của biện pháp này trong việc giáo dục và cải thiện hành vi của bị cáo.

Xem thêm: 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

To Top