Hiện nay, việc chuyển khoản đã trở thành một phương thức thanh toán phổ biến trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Người dân không còn phải tốn thời gian và công sức để di chuyển đến ngân hàng để thực hiện các giao dịch chuyển tiền mà có thể thực hiện mọi giao dịch chỉ với một chiếc điện thoại thông minh kết nối internet.
Chính vì sự tiện lợi này nên việc chuyển khoản cho vay tiền cũng ngày càng được ưa chuộng hơn. Vậy khi xảy ra tranh chấp trong việc cho vay tiền bằng chuyển khoản mà không có giấy tờ thì có đòi được không?
Giấy vay tiền được hiểu như thế nào?
Hiện nay, pháp luật hiện hành không có quy định về cách hiểu giấy vay tiền mà chỉ có quy định cách hiểu về hợp đồng vay tài sản.
Theo quy định tại Điều 463 BLDS năm 2015 đưa ra cách hiểu về hợp đồng vay tài sản như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.”
Xem thêm:
Chuyển khoản tiền cho vay không có giấy tờ vay có đòi được không?
Trước hết, việc vay tiền được xem là giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 116 BLDS năm 2015. Điều 117 BLDS năm 2015 quy định 3 điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự như sau:
(1) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập
(2) Chủ thể tham giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
(3) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội
Căn cứ theo quy định tại Điều 119 BLDS năm 2015 về hình thức của giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể; giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
Như vậy, có thể thấy pháp luật không quy định hình thức của hợp đồng vay tài sản, các bên có thể thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Do đó, trường hợp nếu chuyển tiền cho vay qua tài khoản ngân hàng bằng ứng dụng Internet Banking trên điện thoại được xem là giao dịch dân sự thông qua phương thức điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu và được xem là giao dịch bằng văn bản.
Để có chứng cứ chứng minh bên cho vay đã chuyển khoản tiền vay, bên cho vay cần đến ngân hàng xin xác nhận giao dịch đó và có đóng dấu của ngân hàng để xuất trình. Nếu chuyển tiền trực tiếp tại ngân hàng thì xuất trình biên lai chuyển tiền có xác nhận của ngân hàng. Đây là những tài liệu, chứng cứ có giá trị chứng minh tồn tại giao dịch thực tế giữa hai bên.
Ngoài ra, bên cho vay tiền cũng có thể thu thập các tin nhắn nhắn qua lại giữa hai bên, ghi âm cuộc gọi giữa hai bên. Thông thường khi mượn tiền thì một bên sẽ gọi điện hoặc nhắn tin để trao đổi về khoản vay, trong trường hợp nếu có nội dung tin nhắn hoặc ghi âm nội dung trao đổi về khoản vay thì cần thu thập lại để làm chứng cứ phục vụ quá trình khởi kiện.
Bên cạnh đó, bên cho vay có thể in đoạn tin nhắn đó ra giấy, lập vi bằng điện thoại có nội dung tin nhắn, đối với đoạn ghi âm người cho cho vay có thể cung cấp cho Tòa án kèm theo văn bản trình bày về quá trình ghi âm nội dung trao đổi. Nếu có người làm chứng, người biết về khoản vay đó thì lấy ý kiến từ người làm chứng về việc vay mượn đó, có thể trình bày nội dung và mang đến ủy ban nhân dân để chứng thực chữ ký.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định nếu như giao dịch dân sự vay tiền đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự như quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015 thì việc thỏa thuận vay nợ giữa các bên dù không có giấy vay nợ thì vẫn hợp pháp và bên cho vay hoàn toàn có thể đòi nợ bên vay. Do đó, sau khi thu thập được các tài liệu, chứng cứ nêu trên thì nếu không đòi được tiền, bên cho vay có thể tiến hành khởi kiện tại tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Xem thêm: